Sự nghiệp Rembrandt

Chúa trong cơn bão ở Hồ Galilee, sơn dầu trên vải bạt, 1633

Trong một lá thư gửi cho Huyghens, Rembrandt đã tiết lộ điều ông tìm kiếm trong nghệ thuật, đó là "chuyển động (hay cảm xúc) tự nhiên nhất và tuyệt vời nhất" ("die meeste ende di naetuereelste beweechgelickheijt" - từ "beweechgelickhijt" vừa có nghĩa là "cảm xúc", vừa có nghĩa là "chuyển động")[25]. Ba đề tài chính trong suốt sự nghiệp sáng tác của Rembrandt là tranh chân dung, tranh phong cảnh và tranh minh họa. Với giới nghệ thuật và tôn giáo đương thời, ông được coi là bậc thầy của các bức tranh minh họa Kinh Thánh trong việc miêu tả cảm xúc và các chi tiết[26]. Phong cách vẽ của ông chuyển từ những nét mềm mại, trơn nhẵn ở giai đoạn đầu sang những nét thô ráp để mô tả đạt hơn cảm xúc của mẫu vật[27]. Bên cạnh sự phát triển về kĩ thuật hội họa, Rembrandt cũng có những bước tiến trong kĩ thuật khắc bản in và in ấn. Trong các bản khắc giai đoạn sau, đặc biệt là từ thập niên 1640 trở đi, sự tự do và phóng khoáng được thể hiện rõ rệt.

Giai đoạn đầu

Trong thời kì Rembrandt ở Leiden (từ 1625 đến 1631), các bức họa của ông cho thấy ảnh hưởng của Lastman và Lievens[28]. Các tác phẩm của Rembrandt thường có kích thước nhỏ nhưng giàu chi tiết (các chi tiết quần áo, đồ trang sức). Đề tài của các bức tranh này thường là về tôn giáo hoặc các câu chuyện ngụ ngôn. Năm 1626 ông sáng tác bản khắc in đầu tiên, sự phổ biến của tác phẩm này đã đưa đến cho họa sĩ danh tiếng ở khắp châu Âu[28]. Năm 1629 Rembrandt hoàn thành hai bức Judas ăn năn và Người họa sĩ trong xưởng vẽ, những tác phẩm này là bằng chứng cho sự quan tâm của ông tới việc nắm bắt ánh sáng và kĩ thuật phối màu, đây là bước tiến quan trọng đầu tiên trong sự nghiệp hội họa của Rembrandt[28].

Trong thời gian đầu ở Amsterdam (1632-1636), Rembrandt bắt đầu minh họa các hình ảnh trong kinh thánh và thần thoại với độ tương phản cao trong các bức tranh khổ lớn, điển hình là các bức Sự mù quáng của Samson (1636) và Bữa tiệc của Belshazzar ([[1635). Có lẽ đây là một hình thức cạnh tranh với phong cách vẽ Ba-rốc của Rubens[28]. Ông cũng cho ra đời một số bức chân dung đáng chú ý cả ở khổ nhỏ như Jacob de Gheyn III và khổ lớn như Chân dung người đóng tàu Jan Rijcksen và vợ, Buổi học giải phẫu của Bác sĩ Nicolaes Tulp.[28].

Cuối thập niên 1630, Rembrandt tập trung vào khắc bản in hơn là hội họa, ông cho ra đời rất nhiều bản khắc về phong cảnh. Từ năm 1640 họa sĩ bắt đầu tiết giảm màu sắc trong các tác phẩm, có lẽ điều này chịu ảnh hưởng từ những bi kịch cá nhân mà ông gặp phải trong giai đoạn này. Năm 1642 Rembrandt sáng tác bức tranh nổi tiếng De Nachtwacht, tác phẩm lớn nhất và đáng chú ý nhất của họa sĩ.

Giai đoạn sau

Chân dung tự họa, 1658, được coi là bức chân dung tự họa xuất sắc nhất của Rembrandt[3]

Sau De Nachtwacht, phong cách sáng tác của Rembrandt bắt đầu có sự thay đổi rõ rệt. Bằng cách sử dụng tương phản ánh sáng mạnh, Rembrandt cho ra đời những tác phẩm khá gần gũi với các bức tranh thuộc trường phái Venezia[26].

Trong thập niên 1650, phong cách vẽ của Rembrandt lại thay đổi một lần nữa. Các bức tranh thường có khổ lớn hơn, màu sắc phong phú hơn và nét vẽ rõ ràng hơn để tạo ra những bức tranh chi tiết và sắc nét hơn. Trong những năm cuối đời, ông vẫn thường xuyên mô tả các chủ đề trong Kinh Thánh nhưng thường chuyển đối tượng từ nhóm người sang chân dung các cá nhân cụ thể. Rembrandt cũng tập trung sáng tác các bức chân dung tự họa, từ năm 1652 đến khi qua đời ông đã sáng tác khoảng 15 bức chân dung tự họa.

Số lượng tác phẩm

Vào đầu thế kỉ 20 người ta cho rằng họa sĩ đã sáng tác khoảng trên 600 bức tranh hoàn chỉnh, gần 400 bản khắc và khoảng 2000 bức vẽ[29]. Những nghiên cứu gần đây hơn từ thập niên 1960 cho đến nay (do Dự án nghiên cứu Rembrandt tiến hành) đã đưa ra con số gây tranh cãi ít hơn rất nhiều với khoảng gần 300 bức tranh[30]. Rembrandt là người vẽ rất nhiều tranh chân dung tự họa, đã có nghiên cứu đưa ra con số khoảng 90 bức, nhưng hiện nay người ta biết rằng có một số trong các bức chân dung này là do học trò của họa sĩ vẽ như một hình thức luyện tập và con số tranh chân dung tự họa do chính Rembrandt vẽ có lẽ là khoảng hơn 40 bức, chưa kể khoảng vài bức họa và 31 bản khắc[31].

Khiếm khuyết thị giác

Margaret S. Livingstone, giáo sư bộ môn sinh học thần kinh (neurobiology) tại Đại học Y Harvard (Harvard Medical School) trong một bài báo xuất bản năm 2004[32] đã đưa ra giả thuyết về việc thị giác của Rembrandt bị mắc chứng không phân biệt được hình khối (stereo blindness - mù lập thể). Kết luận này được đưa ra sau quá trình phân tích 36 bức chân dung tự họa của Rembrandt. Vì không thể dùng dùng hai mắt để tạo ra thị trường chung (binocular vision) một cách bình thường, bộ não của họa sĩ đã tự động chuyển phần lớn việc quan sát cho một mắt. Sự vô hiệu hóa một mắt đã giúp họa sĩ làm phẳng các hình ảnh ông nhìn thấy và dễ dàng chuyển nó thành các hình ảnh hai chiều trên tranh. Theo Livingstone, có lẽ sự khiếm khuyết này lại là một món quà cho những họa sĩ lớn như Rembrandt: "Các giảng viên nghệ thuật thường yêu cầu sinh viên nhắm một mắt để làm phẳng những gì họ nhìn thấy. Vì vậy việc bị mù lập thể không những không phải là một khuyết tật, trái lại nó lại là một món quà cho các nghệ sĩ.". Tuy nhiên cần phải thấy rằng trong các bức tranh Rembrandt dựng lại rất tốt hình khối của các vật thể, đặc biệt là các khuôn mặt, để cảm thụ được độ sâu của mẫu như vậy người họa sĩ rõ ràng phải có khả năng nhìn vật thể ba chiều một cách bình thường.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Rembrandt http://www.rembrandt-signature-file.com/ http://www.westernciv.com/courses/2004/noeuart.sht... http://www.getty.edu/art/gettyguide/artMakerDetail... http://www.degrootstenederlander.pi.net/ http://www.rembrandtpainting.net/ http://stadsarchief.amsterdam.nl/archieven/archief... http://stadsarchief.amsterdam.nl/english/amsterdam... http://stadsarchief.amsterdam.nl/english/amsterdam... http://www.codart.nl/news/82/ http://books.google.nl/books?id=le9GAAAAcAAJ&pg=PA...